Đau thắt ngực là tình trạng đau ngực hoặc cảm giác nặng ngực do bệnh lý tim mạch vành. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu hơn về nguyên nhân, biểu hiện, phân loại và cách phòng ngừa đau thắt ngực.
Đau thắt ngực là một vấn đề tim mạch vành phổ biến, xảy ra khi cơ tim không nhận được đủ máu nuôi. Nguyên nhân chính của đau thắt ngực là do hẹp động mạch vành, chiếm khoảng 90% các trường hợp.
Có nhiều nguyên nhân khác gây đau thắt ngực, bao gồm bệnh vi mạch vành, bóc tách động mạch chủ, phù đại cơ tim, viêm màng ngoài tim, đau cơ sau khi vận động, và viêm khớp sụn sườn. Ngoài ra, một số yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ đau thắt ngực, bao gồm tăng huyết áp, hút thuốc, bệnh đái tháo đường, cholesterol cao, có tiền sử trong gia đình mắc bệnh tim, tuổi cao, lười vận động, béo phì, và căng thẳng.
Đau thắt ngực có thể biểu hiện dưới dạng đau tức ngực, lan ra vai, cánh tay, mặt trong cẳng tay và ngón 4-5 của bàn tay bên trái. Có hai dạng biểu hiện của đau thắt ngực, bao gồm dạng điển hình và dạng không điển hình. Dạng điển hình xảy ra sau một gắng sức, đau một vùng trước ngực trái hoặc sau xương ức, và có thể lan ra vai, cánh tay, mặt trong cẳng tay và ngón 4-5 của bàn tay bên trái. Dạng không điển hình xảy ra cả khi nghỉ ngơi thậm chí cả lúc ngủ, và vị trí đau khác nhau.
Để phân loại mức độ đau thắt ngực, có thể chia ra thành bốn cấp độ. Cấp độ 1 là hoạt động thể lực bình thường, đau thắt ngực xuất hiện khi gắng sức nhanh, kéo dài. Cấp độ 2 là giới hạn nhẹ hoạt động bình thường, đau ngực xuất hiện khi đi bộ 500m hoặc lên cầu thang nhanh. Cấp độ 3 là giới hạn rõ, đáng kể hoạt động bình thường. Cấp độ 4 là không có khả năng thực hiện hoạt động bình thường. Đau thắt ngực có thể hiện diện cả lúc nghỉ ngơi.
Để phòng ngừa đau thắt ngực, cần điều trị các bệnh gây nguy cơ, thay đổi lối sống, và tập thể dục thường xuyên. Người bệnh cần tuân thủ điều trị, cần thực hiện theo những lời khuyên của bác sĩ, dùng thuốc theo đơn, không tự ý bỏ thuốc, thêm thuốc hay thay đổi thuốc, tái khám đầy đủ theo lịch hẹn. Ngoài ra, cần kiểm tra sức khỏe định kỳ, xét nghiệm máu để phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ gây xơ vữa mạch máu.