Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào câu chuyện của một đối tượng nghiên cứu, H.M., và cách những ký ức mặc nhiên của ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích chứng mất trí nhớ. Chúng tôi cũng sẽ đề cập tới những giác quan cơ bản và cách họ hoạt động.
H.M., một bệnh nhân động kinh khoảng hai mươi đến ba mươi tuổi, trở thành một đối tượng nghiên cứu dài hạn sau khi phẫu thuật vì một vấn đề liên quan đến não. Nghiên cứu về ông này đóng góp to lớn vào học thuyết hiện đại về chứng mất trí nhớ.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của nghiên cứu là việc phát hiện ra về trí nhớ mặc nhiên. H.M. vẫn giữ những ký ức sự kiện cũ và biết nhiều thứ mà người bình thường cần biết. Tuy nhiên, ông không thể nhớ bất kỳ thông tin mới nào. Ông bị chứng gọi là mất trí nhớ thuận chiều - ông không thể nhớ bất cứ điều gì xảy ra sau khi não bị tổn thương do phẫu thuật.
Trí nhớ mặc nhiên là loại trí nhớ không giống với những loại trí nhớ mà chúng ta biết mà H.M. có. Chúng là những loại ký ức mà chúng ta không biết chúng ta có. Chúng gồm có trí nhớ về kỹ năng và trí nhớ thường trực, phản xạ có điều kiện và trí nhớ mồi.
Các nhà khoa học nghiên cứu các giác quan của con người và cách họ hoạt động. Giác quan là các cửa sổ cho thông tin từ thế giới bên ngoài vào bộ não. Khác với cửa sổ thường, chúng không cho phép tất cả các tín hiệu vào. Chỉ một phần nhỏ của tất cả các tín hiệu hiện hữu tạo ra tín hiệu mà bộ não có thể hiểu.
Trong số các giác quan, nghe được xem là quan trọng nhất cho hoạt động giao tiếp cốt lõi. Đôi mắt là cảm quan phức tạp nhất với khoảng 40% tế bào trong não đến từ mắt. Tri giác là sự chuyển nghĩa các cảm giác do não thực hiện.
Tín hiệu là hoạt động thần kinh mà chúng ta chú ý đến, trong khi các tạp âm là những cảm giác khác. Ví dụ, khi bạn đang đọc trang sách này thì những từ bạn đọc là tín hiệu; âm thanh của những người xung quanh nói chuyện, hoặc cảm giác đói bụng - đều có thể xem là "tạp âm".